CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ NHÀ MẠC, DƯƠNG KINH

          CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ NHÀ MẠC, DƯƠNG KINH

.

       Chúng tôi tách phần ca dao tục ngữ, thành ngữ cổ về huyện Nghi Dương thành 3 phần, trong đó có phần liên quan tới nhà Mạc và Dương Kinh (cố đô tại Hải Phòng):

          1-

Cổ Trai Đế vương

Trà Hương Công chúa

       (Làng Cổ Trai xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, quê của Mạc Thái Tổ, tức Mạc Đăng Dung, thời cách mạng thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Hưng thành phố Hải Phòng. Còn làng Trà Hương (tên Nôm là Chè) thuộc tổng Trà Hương, thời Thành Thái đổi là Trà Phương, tổng Trà Phương, quê của Hoàng hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, thời nay thuộc xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Thụy thành phố Hải Phòng. Trong đó “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại nghi Nguyễn Thị Ngọc Toản?)  

          2-

Ông Sáu là cháu ông Sáu Mươi

       (Câu ca ví hai bến đò cổ trên sông Úc, từ năm 1890 là sông Văn Úc. Bến đò Sáu, thời nay tên là Sứa thuộc thực địa làng Mai Dương, xưa thuộc tổng Nghi Dương, thời nay thuộc xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Nghi Dương thành phố Hải Phòng. Còn bến bên hữu ngạn sông thuộc tổng Cẩm Khê, huyện Tân Minh, thời nay thuộc xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng do bố đẻ Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Hịch chở. Ngược lên thượng lưu một đoạn là bến đò Sáu Mươi, thời nay thuộc thực địa phía Tây xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Nghi Dương thành phố Hải Phòng. Còn bên hữu ngạn sông thuộc tổng Kỳ Vỹ, huyện Tân Minh, thời nay thuộc xã Quang Phục, huyện Tiên Lãng. Thời kỳ đầu do ông Mạc Phúc Thung (cụ nội của Mạc Đăng Dung) chở. Về nghĩa đen thì hai người chở đò ở hai bến là hai ông cháu, nhưng về nghĩa bóng thì lưu lượng khách đò Sáu Mươi hơn đò Sáu. Tại sao hai đò này lại mang tên là số, chúng tôi trình bày ở phần khác. Câu ca này có từ thời Mạc)

          3-

Tiếng đồn tổng Cổ giàu ghê

Làng Cổ lắm nghề cấy lúa đóng xăm

Làng Nhân buôn bán ầm ầm

Làng Kim lập ấp lại chăm ghè hà

       (Các địa danh này xưa thuộc tổng Cổ Trai, gọi tắt là Cổ, từng là cố đô thời Mạc, xưa thuộc huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Ngũ Đoan, Đại Hà và Tân Trào huyện Kiến Thụy. Làng Nhân Trai, gọi tắt là Nhân, xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy. Còn làng Kim Sơn gọi tắt là Kim, xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Minh thành phố Hải Phòng)

       4-

Làng Kỳ bánh đúc bánh đa

Làng Thống bán rủi, làng Đa buôn trầu

Làng Kim săn lác, xẻ hàu

Làng Cổ đỏ đầu lại cố lặn xăm

Làng Ngọc buôn thuốc, bán chăn

Làng Nhân mắm muối quanh năm tối ngày

       (Bán rủi lấy từ câu thành ngữ “mua may bán rủi”, hay săn cá lác, xẻ hàu là ghè hà. Những chữ viết ngả tắt là các làng: Kỳ Sơn; Ngọc Tỉnh, tên Nôm là Thống; Đa Ngư; Kim Sơn; Cổ Trai; Ngọc Liễn và Nhân Trai, thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Tân Trào, Ngũ Đoan và Đại Hà huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Hưng, thành phố Hải Phòng. Câu ca này của tổng Cổ Trai có vào đầu thế kỷ XX)

       5-

Khoai lang làng Kiện rất bùi

Thuốc lào làng Cổ rít hơi say mèm

       (Làng Kiện Bộ sau này đổi thành Cao Bộ, xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Đại Hà, huyện Kiến Thụy. Làng Cổ tức Cổ Trai, xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Hưng thành phố Hải Phòng)

          6-

Ông Cổ là bố bác Thù

       (Đây là câu ca nói về lượng khách qua bến đò Cổ Trai, gọi tắt là Cổ, xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương và bến đò làng Thù Du, xưa thuộc tổng Sâm Linh, huyện Nghi Dương trên sông Câu Thượng, sau này là Đa Độ. Thời nay thuộc xã Ngũ Đoan và xã Minh Tân, huyện Kiến Thụy, từ 07/2025 thuộc xã Kiến Hưng và Kiến Minh, thành phố Hải Phòng)

          7-

Dương Kinh - Nghi Dương

Thủy Đường – Hoàng Tôn

       (Trung tâm quyền lực thời Mạc nằm ở huyện Nghi Dương, đạo Hải Dương, thời nay là huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng, từ tháng 07/2025 là 5 xã (Kiến Thụy, Kiến Minh, Kiến Hải, Kiến Hưng và Nghi Dương) của thành phố Hải Phòng. Còn đền thờ các Vương tôn Công tử cháu nội vua Trần thứ nhất, tức ngang hàng với vua Trần Nhân Tông đã anh dũng hy sinh tại chiến trường, được thờ ở làng Tràng Kênh, huyện Thủy Đường, trấn Hải Dương, thời nay thuộc thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên, từ tháng 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng)

          8-

Thành Dền Thiểm Khê

Đền Nghè Thanh Lãng

       (Làng Thiểm Khê, xưa thuộc tổng Trúc Động, thời nay thuộc xã Liên Khê huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Lưu Kiếm thành phố Hải Phòng, nơi có liên tiếp 20 ngọn núi và có thành cũ, gọi là thành nhà Mạc. Tục truyền nhà Mạc từng xây dựng Đấu Đong quân ở đây, núi này đối diện với núi Đồn (tên Nôm là Đụn) bên tả ngạn sông. Hay con sông từ ngã ba sông Mỹ (sau là thượng nguồn sông Giá) kéo xuống phía hạ lưu gọi là sông Thành Triền, theo tên Nôm là Thành Dền (từ năm 1890 là Đá Bạc). Còn làng Thanh Lãng, tên Nôm là Ráng, xưa thuộc tổng Phù Lưu, huyện Thủy Đường, thời nay thuộc xã Quảng Thanh huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Lê Ích Mộc thành phố Hải Phòng là quê của Trạng nguyên Lê Ích Mộc đỗ Đại khoa năm 1502. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, thì đền Nghè làng này được xếp hạng di tích thời Nguyễn, ngang với danh hiệu di tích cấp quốc gia thời nay)

          9-

Đời vua Thái Tổ Thái Tông

Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng muốn ăn

          Hay:

Đời vua Thái Tổ Thái Tông

Con bế con dắt, con bồng con mang

       (Câu này ý nói thời kỳ thịnh trị nhà Mạc, một xã hội giàu có, mùa màng bội thu, người dân sung túc, pháp luật được thực thi nghiêm ngặt, xã hội không còn trộm cướp, “ngoài đường không ai nhặt của rơi”)

          10-

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Để cho anh chẩy nước non Cao Bằng

       (Câu này ý ngược lại với câu ca dao trên ở thời kỳ suy tàn, thể hiện nỗi niềm ly tán giữa dưới xuôi và miền ngược) 

          11-

Nà Lư - Thạch Lâm

Chùa Xuân – Thạch An

       (Câu ca này nói về hai di tích cổ là thành nhà Mạc và chùa Xuân ở Cao Bằng. Thành cổ nhà Mạc thời kỳ đầu được dựng ở phường Nà Lư (那闾) có nghĩa là “làng Yên Bình”, hay gọi là thành Nà Lư, xưa thuộc tổng Hà Đàm, châu Thạch Lâm, trấn Cao Bằng. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) nhà Nguyễn tách châu Thạch Lâm thành hai huyện là Thạch Lâm và Thạch An thuộc phủ Hòa An (từ năm 1850 bỏ phủ). Năm Tự Đức thứ 27 (1874) khi lập lại phủ Hòa An, tách thêm một số làng sang huyện Nguyên Bình mới lập. Sau là các huyện Hòa An, Thông Nông, Hà Quảng và Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng. Thời nay là Nà Lữ xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Còn thành Mạc giai đoạn sau năm 1677, khi Mạc Kính Vũ rút về thành Phục Hòa thuộc tổng Phục Hòa, châu Thanh Lâm trấn Cao Bằng, thời nay thuộc phường Thục Phán thành phố Cao Bằng. Còn chùa Xuân Lĩnh gọi tắt là Xuân, hay còn gọi theo tên khác là chùa Viên Minh thuộc làng Xuân Lĩnh (春嶺) tổng Tượng An châu Thạch Lâm trấn Cao Bằng. Thời nay thuộc làng Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng tỉnh Cao Bằng. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý, khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã trùng tu lại. Tại chùa làng này sau còn thờ Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn)

          12-

Ba năm trấn thủ lưu đồn

Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan

Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn

Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai

Miệng ăn măng trúc, măng mai

Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng…

       (Khi xưa lính (thú) phải đi làm nhiệm vụ ở trấn ải Cao Bằng, một miền đất xa xôi hiểm trở mà ba năm mới được về quê)

          13-

Ở nhà có nhớ anh chăng?

Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe

       (Tâm tư của người ở Cao Bằng muốn thổ lộ với người ở xuôi)

          14-

Mình về nuôi cái, cùng con

Để anh đi trẩy nước non kịp người

Cho kịp chân ngựa, chân voi

Cho kịp chân người, kẻo thiếu việc quân…

       (Tâm tư của người đi Cao Bằng nhắn nhủ cho người ở lại)

          15-

Chân đi đá lại dùng dằng

Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con

Đi thì nhớ xóm nhớ thôn

Khi về nhớ củ khoai môn trên rừng.

       (Nỗi nhớ nhung khi xa quê lên xây dựng căn cứ nhà Mạc ở Cao Bằng)

          16-

Mai anh đi thú Cao Bằng
Giã em ở lại đạo hằng chớ quên

       (Từ Thú (戍), nghĩa là đi lính ngoài biên cương)

          17-

Ngày đi trúc chửa mọc măng

Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre

Ngày đi lúa chửa chia vè

Ngày về lúa đã đỏ hoe cánh đồng

Ngày đi em chửa lấy chồng

Ngày về em đã con bồng con mang

Đứa thì chẻ nứa đan sàng

Đứa thì vặn võng cho nàng ru con

       (Câu ca này có ở một số nơi, áp dụng cho từng thời điểm cụ thể. Song câu bát thứ hai có từ “cao bằng” nên cư dân vùng Cao Bằng nhận là của mình)

          18-

Hòn Vọng Phu

Chùa Tam Thanh

Thành nhà Mạc

       (Núi Vọng Phu (望夫山), tức “hòn chờ chồng” nằm trong dải núi của thành nhà Mạc. Chùa Tam Thanh trong động Tam Thanh có thờ phối ba vị thần trong Đạo giáo là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Sau này chuyển sang thờ Phật, tên gọi Tam Thanh vẫn được giữ lại để chỉ quần thể động Nhị Thanh, Nhất Thanh và Tam Thanh. Còn thành nhà Mạc được xây dựng vào cuối thế kỷ XVI do Mạc Kính Cung tổ chức đắp ở núi Vệ gần núi Tam Thanh về phía Đông Bắc nhằm trấn giữ con đường độc đạo qua Lạng Sơn sang Trung Quốc. Ba địa danh trên xưa thuộc làng (xã) Vĩnh Trại, tổng Trừ Trĩ, châu Thoát Lãng, phủ Trường Khánh xứ Lạng Sơn, thời nay thuộc phường Tam Thanh thành phố Lạng Sơn, từ tháng 07/2025 thuộc phường Tam Thanh tỉnh Lạng Sơn. Năm 1962 chùa Tam Thanh, núi Tô Thị (Vọng Phu) và thành nhà Mạc được công nhận là Di tich slichj sử văn hóa cấp Quốc gia)

          19-

       Phiên âm tiếng Việt:

Puôn nhàu háng Nhát

Puôn bát Lùng Chu

Kin cưa Pơ Hác

Puôn lợn Pác Nặm…

       Dịch nghĩa:

Buôn trầu chợ Nhát

Buôn bát Lùng Chu

Buôn muối Pơ Hác

Buôn lợn Pác Nặm

       (Tục truyền khi nhà Mạc dời đô lên Cao Bằng, thì về đời sống, kinh tế, văn hóa và thương mại khá phát triển. Trên là một số chợ của trấn Cao Bằng xưa)

          20-

Thành hoàng – phố Đông

Quan Công – phố Khách

Quang Thuận - Tình Húc

Mô Sơn – Nghiêm Sơn

Trần Hưng Đạo vương

Phố Đông Thành đó

Còn thành Mạc cổ

Ở phố Tam Kỳ

Chân Sơn uy nghi

Cao Sơn thần Nước

Ỷ La thân thuộc

Hiệp Thuận thần tài!

       (Đây là bài vè ở huyện Hàm Yên phủ Yên (An) Bình xứ Tuyên Quang, nói về bảy miếu thờ và một thành cổ cụ thể như sau: Miếu Thành hoàng bản tỉnh Tuyên Quang thờ ở phố Đông Thành, gọi tắt là Đông thuộc tổng Trung Môn; Miếu thờ Quan Công ở phố Khách thuộc tổng Trung Môn; Miếu thờ thần Quang Thuận ở làng Tình Húc tổng Bình Ca; Miếu thờ thần Mô Sơn ở làng Nghiêm Sơn tổng Hoàng Sơn; Miếu thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở phố Đông Thành tổng Trung Môn nằm bên sông Lô, thời nay thuộc phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang; Thành nhà Mạc ở phố Tam Kỳ tổng Trung Môn, thời nay thuộc phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; Miếu thờ thần Cao Sơn ở làng Chân Sơn tổng Trung Môn; Miếu thờ thần Hiệp Thuận ở làng Ỷ La tổng Trung Môn, huyện Hàm Yên phủ Yên Bình, thời nay thuộc trung tâm tỉnh lỵ Tuyên Quang. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí” thì Thành tỉnh Tuyên Quang ở địa phận làng Ỷ La tổng Trung Môn huyện Hàm Yên, đầu Nguyễn là Phúc Yên phủ Yên Bình)

          21-

Hăm mốt tháng chạp

Gió đổ thành Mạc

Hăm hai tháng chạp

Gió đổ thành Dung

       (Câu ca này chúng tôi sưu tầm từ tổng Cao Xá, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây, thời nay thuộc xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Chữ Dung ở câu cuối là từ gọi tắt của Mạc Đăng Dung, tức Mạc Thái Tổ)

(Còn nữa)

NGỌ TÔ (Sưu tầm)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các tin liên quan

Đối tác

Len dau trang
© Copyright © 2018 . All rights reserved