CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN THANH MIỆN XỨ ĐÔNG
CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN THANH MIỆN XỨ ĐÔNG
.
Cũng giống như nhiều mảnh đất khác thuộc trấn Hải Dương, miền đất nơi đây thời cổ mang tên Thanh Miện. Tới thời thuộc Minh (1407 – 1427) thuộc châu Hạ Hồng, phủ Tân An. Từ thời Hậu Lê cho tới đầu Nguyễn đều thuộc phủ Hạ Hồng, năm Minh Mạng thứ 3 (1822) Thanh Miện thuộc phủ Ninh Giang. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) tách Thanh Miện để hợp với huyện Cẩm Giàng thành phân phủ Bình Giang. Đầu Nguyễn huyện Thanh Miện thuộc phủ Hạ Hồng gồm 8 tổng (Từ Ô, Đặng Xá, Thọ Trương, Phí Xá, Phù Nội, Phú Mễ, La Ngoại và Mi Động) với 55 làng, giáp. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) bỏ phân phủ, Thanh Miện trở thành huyện thống hạt phủ Bình Giang. Đầu thế kỷ XX trở đi huyện Thanh Miện thuộc tỉnh Hải Dương. Về phong tục được ghi ở sách quốc gia thời Nguyễn vào thế kỷ XIX về huyện Thanh Miện như sau: “Kẻ sỹ chăm lo học hành, nhà nông siêng năng cày cấy, số buôn bán không nhiều. Ăn mặc chi tiêu dè sẻn. Cưới xin ma chay tiết kiệm, những người thờ cúng thần linh thì lễ vật dồi dào. Đa số theo đạo Phật, theo Thiên chúa giáo có 3 làng là Từ Xá, Phương Quan và Bảo Trung”. Sau đây là một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ cổ về huyện Thanh Miện:
1-
Phủ Thượng thành Bình
Phủ Hạ thành Ninh
Hai phủ Nam – Kinh
Giữ nguyên tên cổ
(Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở làng Vạc, nên còn gọi là phủ Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn gọi là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm 1837, thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, từ 2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
2-
Cơm làng Hoá
Cá làng Từ
(Làng Tòng Hóa, tên Nôm là Hóa, xưa thuộc tổng Phí Xá, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng. Còn giáp Từ Xá, xưa thuộc làng Phí Xá, tổng Phí Xá, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng. Thời nay hai làng trên thuộc xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương)
3-
Cửa nhà Châu Quan
Áo quần Thủ Pháp
(Làng Châu Quan, xưa thuộc tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng. Làng Thủ Pháp, xưa thuộc tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng. Hai làng trên thời nay thuộc xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương)
4-
Hoàng Xuyên, Văn Nhuệ cũng giống ta
Thủ Pháp, Lang Gia về ta cũng thế.
(Giáp Hoàng Xuyên, xưa thuộc tổng Văn Nhuệ, huyện Thiên Thi, phủ Khoái Châu, thời nay là huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên. Hay tổng Văn Nhuệ xưa thuộc huyện Thiên Thi, thời nay là huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên. Làng Thủ Pháp, xưa thuộc tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện. Còn làng Lang Da (từ hồi nước ta dùng chữ quốc ngữ thì là Lang Gia), xưa thuộc tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Tân Trào, huyện Thanh Miện
5-
Chơi với dân làng Thông
Mất cả gồng lẫn gánh
(Làng Phạm Lâm, tên Nôm là Thông, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Dân làng buôn bán, nên rất tinh ranh)
6-
Qua Thông, ghé Bóng, chớ vào Rồng
Chó cắn mất gậy trở ra không
.
(Làng Phạm Lâm, tên Nôm là Thông, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Làng Hậu Bổng, tên Nôm là Bóng, xưa thuộc tổng Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, thời cách mạng là thôn Hậu Bổng, xã Quang Minh, huyện Gia Lộc. Còn làng Cao Duệ, tên Nôm là Rồng, xưa thuộc tổng Tông Đức, huyện Gia Lộc, thời cách mạng thuộc xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc.)
.
7-
Ăn củ khoai Thói
Uống bát nước Giải
(Làng Văn Hội, tên Nôm là Thói, xưa thuộc tổng Văn Hội, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Văn Hội, huyện Ninh Giang có giống “khoai tiến vua” rất ngon. Còn làng Phù Tải, tên Nôm là Giải, xưa thuộc tổng Văn Hội, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện, cùng tỉnh Hải Dương có chè xanh khá đặc sắc. Còn nhiều nhà báo thời nay viết là làng Thới là chưa đúng tên cổ)
8-
Làng Mè chẳng thấy mè đâu
Làng Lợ ngọt lịm, làng Tầu không sông
Làng Thông chẳng thấy bóng thông
Làng Hoa chỉ thấy xương rồng lắm gai?
(Đây là bốn câu ca dao vui, nói về các làng gọi theo tên Nôm của huyện Thanh Miện: Làng My Động, tên Nôm là Mè, xưa thuộc tổng My Động, huyện Thanh Miện, còn làng Hàn Lâm, tên Nôm là Mè, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, cuối thế kỷ XIX tổng này mới được cắt về huyện Thanh Miện, chính vì vậy ở cùng một huyện có 2 làng Mè là vậy. Làng Tiên Lữ, tên Nôm là Lợ, xưa thuộc tổng Văn Xá (Đầng), huyện Thanh Miện. Làng Tào Khê, tên Nôm là Tầu, xưa thuộc tổng Phú Mễ, huyện Thanh Miện. Làng Phạm Lâm, tên Nôm là Thông, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, cuối thế kỷ XIX tổng này bị cắt về huyện Thanh Miện, thời cách mạng thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Còn làng Phương Dương, tên Nôm là Hoa, xưa thuộc tổng My Động, huyện Thanh Miện. Câu ca dao này có từ đầu thế kỷ XX)
9-
Các làng Neo, Giữa, Vàng, Lai
Trương, Nguộn, Dựa, Xá, Giác, Khoai, Sộp, Bùi
Đầng, Giao, Ghép, Vối, San, Nuồi
Để Mơ, Chìa, Nại, Vắp B… Ổ, Ô
(Đây là bốn câu ca dao vui, nói về 24 làng gọi theo tên Nôm của huyện Thanh Miện thời xưa: Làng Bất Nạo, tên Nôm là Neo, xưa thuộc tổng Phù Nội (Nuồi); Làng Chỉ Trung, tên Nôm là Giữa, xưa thuộc tổng Phù Nội (Nuồi); Làng Hoàng Xá, tên Nôm là Vàng, xưa thuộc tổng Phù Nội (Nuồi); Làng An Lạc, tên Nôm là Lai, xưa thuộc tổng Phù Nội (Nuồi); Làng Thọ Trương, tên Nôm là Trương, xưa thuộc tổng Thọ Trương (Trương); Làng Thọ Xuyên, tên Nôm là Nguộn, xưa thuộc tổng Thọ Trương (Trương). Ở tổng Đoàn Lâm cũng có làng Nguộn, nhưng về sau tổng Đoàn Lâm mới được cắt từ Gia Lộc về; Làng An Bình, tên Nôm là Dựa, xưa thuộc tổng Thọ Trương (Trương); Làng Đông La, tên Nôm là Xá, xưa thuộc tổng Văn Xá (Đầng); Làng An Nghiệp, tên Nôm là Giác, xưa thuộc tổng Phú Mễ; Làng An Khóa, tên Nôm là Khoai, xưa thuộc tổng Phú Mễ; Làng Ngọc Lạp, tên Nôm là Sộp, xưa thuộc tổng Từ Ô (Ô); Làng Bùi Xá, tên Nôm là Bùi, xưa thuộc tổng Từ Ô (Ô); Làng Văn Xá, tên Nôm là Đầng, xưa thuộc tổng Văn Xá (Đầng); Làng Triều Dương, tên Nôm là Giao, xưa thuộc tổng My Động; Làng Đan Giáp, tên Nôm là Ghép, xưa thuộc tổng My Động; Làng Hội Yên, tên Nôm là Vối, xưa thuộc tổng My Động; Làng Châu Quan, tên Nôm là San, xưa thuộc tổng Từ Ô (Ô); Làng Phù Nội, tên Nôm là Nuồi, xưa thuộc tổng Phù Nội (Nuồi); Làng My Trì, tên Nôm là Mơ, xưa thuộc tổng La Ngoại; Làng Cụ Trì, tên Nôm là Chìa, xưa thuộc tổng La Ngoại; Làng Nại Trì, tên Nôm là Nại, xưa thuộc tổng La Ngoại; Làng Thủ Pháp, tên Nôm là Vắp, xưa thuộc tổng Từ Ô; Làng Tiêu Ổ, tên Nôm là Ổ, xưa thuộc tổng La Ngoại và làng Từ Ô, tên Nôm là Ô, xưa thuộc tổng Từ Ô (Ô))
10-
Son đất Văn Khê
Dệt tơ Triều Dương
(Làng Văn Khê, xưa thuộc tổng Phí Xá có nghề son đất (tên cổ có liên quan tới đất như nặn tượng hay gốm…) khá nổi tiếng, thời nay thuộc xã Cao Thắng, huyện Thanh Miện. Còn nghề dệt vải ở làng Triều Dương, xưa thuộc tổng My Động, thời nay thuộc xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện. Hai nghề này được ghi ở quốc sử thời Nguyễn)
11-
Bánh đa làng Đầu
Rau màu làng Đọ
Đan rọ làng Ghép
(Làng Đào Lâm, tên Nôm là Đầu, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, cuối thế kỷ XIX thì về với Thanh Miện, thời nay thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Làng Đỗ Lâm, tên Nôm là Đọ, xưa thuộc tổng Đoàn Lâm, huyện Gia Lộc, cuối thế kỷ XIX thì về với Thanh Miện, thời nay thuộc xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện. Còn làng Đan Giáp, tên Nôm là Ghép, xưa thuộc tổng My Động, huyện Thanh Miện, thời nay thuộc xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện có nghề đan lát khá nổi tiếng)
12-
Dây thừng làng Nại
Móc sợi làng La
(Làng Nại Trì, tên Nôm là Nại, xưa thuộc tổng La Ngoại, thời nay thuộc xã Ngũ Hùng, huyện Thanh Miện. Còn làng La Ngoại, gọi tắt là La, xưa thuộc tổng La Ngoại, huyện Thanh Miện, thời nay thuộc xã Ngũ Hùng, huyện Thanh Miện có nghề móc sợi và làm tranh)
13-
Trai làng Ô chưa xô đã ngã
Gái làng Hóa chưa gạ đã theo
(Làng Từ Ô, tên Nôm là Ô, xưa thuộc tổng Từ Ô, huyện Thanh Miện, thời nay thuộc xã Tân Trào, huyện Thanh Miện. Còn làng Tòng Hóa, tên Nôm là Hóa, xưa thuộc tổng Phí Xá, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện)
14-
Nhất canh trì
Nhì canh viên
Tam canh điền
(Đây là câu ca về kinh doanh ao (池) - vườn (園) – ruộng (田) thời phong kiến được áp dụng rộng rãi ở huyện Thanh Miện)
15-
Gà chọi An Lão
Thừng chão Thanh Miện
(Huyện An Lão và huyện An Dương, phủ Kinh Môn có tiếng về gà chọi, còn huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng cùng trấn Hải Dương có nghề là làm thừng chão)
(Còn nữa)
NGỌC TÔ (Sưu tầm và biên soạn)