CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN ĐƯỜNG AN XỨ ĐÔNG

CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN ĐƯỜNG AN XỨ ĐÔNG

.

       Cũng giống như nhiều mảnh đất khác thuộc trấn Hải Dương xưa, miền đất nơi đây vào niên hiệu Hội Xương (841 - 846) đời Đường, thì Thứ sử Giao Châu là Vũ Hồn định cư ở thôn Mộ Trạch, nhân đặt tên huyện là Đường An. Thời Lý Trần (1009 - 1400) huyện Đường An thuộc châu Thượng Hồng. Thời thuộc Minh (1407 – 1427) vẫn thuộc châu Thượng Hồng, nhưng đặt thuộc phủ Lạng Giang. Đời Lê Thánh Tông đổi thuộc châu Thượng Hồng xứ Hải Dương. Đầu Nguyễn (1802 - 1945) thì huyện Đường An gồm 10 tổng (Vĩnh Lại, Tông Tranh, Ngọc Cục, Thì Cử, Đường An, Minh Loan, Lôi Khê, Triền Đổ, Bình Dã và Phúc Cầu) với 66 làng, giáp. Về sau do kiêng húy, tổng Tông Tranh đổi thành Thị Tranh (1841), tổng Thì Cử đổi thành Tuyển Cử (1848), tổng Bình Dã đổi thành Bằng Dã và đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888) vẫn giữ nguyên 10 tổng với 66 làng, giáp. Đầu đời Đồng Khánh (1886 – 1888) kiêng đồng âm kiêng húy đổi là huyện Năng An (Yên). Cuối thế kỷ XIX, thì phủ Bình Giang thay thế huyện Năng An với 10 tổng là Bằng Đà, Bình An (Trước là Đường An), Hòa Loan (trước là Minh Loan), Lôi Khê, Lý Đỗ, Ngọc Cục, Phúc Cầu, Thị Tranh (trước là Tông Tranh), Tuyển Cử và Vĩnh Lại.

       Còn về phong tục của huyện này được ghi ở sách quốc gia thời Nguyễn thế kỷ XIX như sau: “Kẻ sỹ huyện Đường An chuộng văn học, nhà nông lo cấy cày, các nghề thợ cũng tinh xảo như nghề thợ vàng, thợ thiếc so với các huyện khác thì có phần hơn. Ăn mặc phần lớn xa hoa lả lướt, nhưng các việc cưới xin ma chay lại có phần giản dị. Dân chúng phần lớn theo đạo Phật, theo Thiên chúa giáo chỉ một làng Tráng Liệt mà thôi”.

       Huyện Đường An tới hết thời Đồng Khánh (1888) có 104 Tiến sỹ Nho học, sau đó chuyển sang Ân Thi (Hưng Yên) 3 vị và còn lại 101 vị. Những làng có nhiều khoa bảng đó là: Mộ Trạch (Chằm) với 39 vị; Hoa Đường (Lương Ngọc) với 10 vị; Ngọc Cục với 8 vị; Hoạch Trạch với 7 vị; Đan Loan (Độc) với 5 vị; Hoa Lại (Vĩnh Lại) với 4 vị…Sau đây là một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ cổ về huyện Chí Linh xưa:

 

1-

Phủ Thượng thành Bình

Phủ Hạ thành Ninh

Hai phủ Nam – Kinh

Giữ nguyên tên cổ

 

       (Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở làng Vạc, nên còn gọi theo tên khác nữa là phủ Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ sau đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn có tên khác nữa gọi là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang, hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm 1837, thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ mới mang tên Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và tỉnh Kiến An, sau là thành phố Hải Phòng, từ 07/ 2025 thì tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng sáp nhập mang tên Hải Phòng)

 

2-

Bút nghiên, đèn sách, văn phòng

Châu Hồng, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.

 

       (Hồng Châu, tức châu Hồng, là đơn vị hành chính của chỉ Giao, tức Giao Chỉ, sau này là vùng đất thuộc Hải Dương, Hải Phòng cùng một phần của Hưng Yên và Quảng Ninh. Còn Nam Sách là một châu gồm nhiều huyện, trong đó có Tiên Lãng, Thanh Hà, Thanh Lâm, Chí Linh... Hay thừa tuyên Nam Sách thời Lê sơ, sau là thừa tuyên Hải Dương, rồi xứ Hải Dương, rồi trấn Hải Dương gồm 19 huyện cổ. Và câu ca này ý nói xứ Đông là nơi hiếu học, nhiều người đỗ đạt)

.

3-

Trạng cờ làng Độc càng ghê

Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành.

 

      (Tiến sỹ Nho học năm Nhâm Thìn (1712) Vũ Huyên, người làng Đan Loan, tên Nôm là Độc, xưa thuộc tổng Minh Loan (sau tổng này đổi thành Hòa Loan), huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, từ sau năm 1945 thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đã dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông (1679 - 1731) khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa. Trong đó một số tài liệu khác ghi Trạng cờ Vũ Huyên người Mộ Trạch là chưa chính xác)

 

4-

Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.

 

     (Làng Châu Khê, xưa thuộc tổng Tông Tranh, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, từ sau năm 1945 thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng, nằm bên tả ngạn sông Bắc Hưng Hải. Làng Phù Ủng, gọi tắt là Ủng, xua thuộc tổng Chiêu Lai, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, sau năm 1945 thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, Hưng Yên, nằm bên hữu ngạn sông Bắc Hưng Hải)

 

5-

Rượu Hoàng Mơ, cờ làng Độc

 

       (Làng Hoàng Mai, có tên gọi khác là Hoàng Mơ, xưa thuộc tổng Hoàng Mai, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, thời nay thuộc thành phố Hà Nội có nghề nấu rượu khá nổi tiếng. Còn Tiến sỹ Nho học năm Nhâm Thìn (1712) Vũ Huyên, người làng Đan Loan, tên Nôm là Độc, xưa thuộc tổng Minh Loan (năm 1885 tổng này đổi thành Hòa Loan), huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, từ sau năm 1945 thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương là Trạng cờ. Một số tài liệu khác ghi vua cờ Vũ Huyên, người làng Mộ Trạch là chưa chính xác)

 

6-

Chợ Sặt bánh đa

Chợ Bóp bánh đúc

Chợ Chùa ăn vụng

Chợ Bùi ăn chơi

 

       (Đây là câu ca về các chợ của huyện Bình Giang. Làng Tráng Liệt, tên Nôm là Sặt, xưa thuộc tổng Tông Tranh (thời Thiệu Trị đổi là Thị Tranh), huyện Đường An, phủ Thượng Hồng. Cuối thế kỷ XIX thì làng này là Tráng Liệt Bình thuộc phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi dân cư đông đúc, giao thương sầm uất bên quốc lộ 5, quốc lộ 38 và dòng sông Sặt. Năm 1925, thì phủ lỵ Bình Giang chuyển từ giáp Ninh Bình, làng Hoạch Trạch (thời nay thuộc xã Thái Học) lên khu Kẻ Sặt, thời cách mạng là thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, vì vậy chợ Kẻ Sặt gọi tắt là Sặt. Chợ làng Bùi Khê, gọi tắt là Bùi, xưa thuộc tổng Lôi Khê, huyện Đường An, từ sau năm 1945 thuộc xã Hồng Khê, huyện Bình Giang)

 

7-

Cao Vương – Kim Loan

Đường An – Văn miếu

 

       (Đền thờ Cao Vương ở tổng Minh Loan, từ cuối thế kỷ XIX trở đi là Hòa Loan. Theo các sách quốc gia thời Nguyễn ghi đền ở làng Kim Loan, tổng Kim Loan, huyện Đường An, từ thế kỷ XX vị Dương thần Cao Vương (hay Cao Sơn) làng này mang tên Đan Loan, tên Nôm là Độc thuộc tổng Hòa Loan, phủ Bình Giang, từ sau năm 1945 thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang. Còn Văn miếu huyện, hay Văn từ huyện Đường An được đặt tại tổng Đường An, cụ thể là làng Hoạch Trạch, tên Nôm là Vạc, xưa thuộc tổng Đường An, thời Đồng Khánh kiêng húy đổi thành Bình An, huyện Bình An, thời nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

8-

Lược Hoạch Trạch có công nhỏ nhặt

Hương Dương Điều ngào ngạt gió đưa

 

       (Làng Hoạch Trạch, tên Nôm là Vạc, xưa thuộc tổng làng Hoạch Trạch, tên Nôm là Vạc, thời Đồng Khánh kiêng húy đổi thành Bình An, huyện Bình An, thời nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng. Còn làng Dương Điều, xưa thuộc tổng Phong Cốc, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, từ sau năm 1945 thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên)

 

9-

Hỡi cô thắt dải bao xanh

Có về Đào Xá với anh thì về

Đào Xá ít ruộng nhiều nghề

Yêu nghề làm quạt giấy hay nghề đan khuya?

 

       (Làng Đào Xá, gọi tắt là Đào, xưa thuộc tổng Ngọc Cục, huyện Đường An, từ cuối thế kỷ XIX thuộc huyện Ân Thi, từ sau năm 1945 thuộc xã Đào Dương, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên)

 

10-

Gạch, bát làng Cậy

Quạt giấy làng Đào

 

       (Làng Hương Gián, tên Nôm là Cậy, xưa thuộc tổng Triền Đổ (thời Thiệu Trị đổi là Lý Đổ), huyện Đường An, từ sau năm 1945 thuộc xã Long Xuyên, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Còn làng Đào Xá, gọi tắt là Đào, xưa thuộc tổng Ngọc Cục, huyện Đường An, từ đầu thế kỷ XX thuộc huyện Ân Thi, thời nay thuộc xã Đào Dương, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên)

 

11-

Trai làng Đò chưa xô đã đổ

Gái làng Bến chưa hẹn đã theo

 

       (Giáp Phương Độ, tên Nôm là Đò thuộc làng Hạ Khuông, xưa thuộc tổng Phúc Cầu, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

12-

Thứ nhất là chợ Đường An

Thứ nhì Tráng Liệt lo toan nỗi gì

 

       (Đây là hai chợ lớn của huyện Đường An, sau là Bình Giang. Làng Đường An, xưa thuộc tổng Đường An, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng. Lúc đầu huyện lỵ ở trang Đường An, nên chợ này là chợ huyện. Đến thời Đồng Khánh (1886 – 1888), kiêng húy đổi thành Bình An thuộc tổng Bình An, từ sau năm 1945 thuộc xã Tân Việt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Còn làng Tráng Liệt, xưa thuộc tổng Tông Tranh, huyện Đường An, tới thời Thiệu Trị tổng này đổi thành Thị Tranh. Đầu thế kỷ XX lỵ sở Bình Giang chuyển về thị trấn Sặt, thì chợ Tráng Liệt (hay gọi theo tên Nôm là Sặt) thành chợ huyện. Hai chợ trên được ghi trong sách “Đại Nam nhất thống chí” xuất bản thời Nguyễn. Từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

13-

Nghề mộc Thượng Khuông

Bán buôn Bùi Xá

Cơ khí Tráng Liệt

 

       (Làng làm mộc Thượng Khuông, xưa thuộc tổng Vĩnh Lại, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Hưng Thịnh (ngay quán Gỏi), huyện Bình Giang. Làng buôn bán Bùi Xá, xưa thuộc tổng Hòa Loan (cổ xưa thuộc tổng Minh Luân, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang. Làng làm cơ khí Tráng Liệt, xưa thuộc tổng Tông Tranh, huyện Đường An, tới thời Thiệu Trị tổng này đổi thành Thị Tranh, huyện Đường An, thời nay thuộc thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

14-

Chơi với dân làng Chằm

Không bị chơi khăm mới lạ

 

       (Làng Mộ Trạch, tên Nôm là Chằm, xưa thuộc tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, từ sau năm 1945 thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

15-

Chơi với dân làng Láo

Không còn cháo mà ăn

 

       (Giáp Phúc Lão thuộc làng Pháp Chế, tên Nôm là Láo, xưa thuộc tổng Bình (Bằng) Dã, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

16-

Đò làng Ngọc

Thóc làng Mòi

B… làng Vạc

 

       (Giáp Ngọc Mai, gọi tắt là Ngọc thuộc làng Hạ Khuông (có đền thờ Thượng thư Phạm Đình Trọng), xưa thuộc tổng Phúc Cầu, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang. Giáp Đông, tên Nôm là Mòi làng Tuy Lai, xưa thuộc tổng Vĩnh Lại, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Vĩnh Tuy, nằm bên tả ngạn sông Bắc Hưng Hải, huyện Bình Giang. Còn làng Hoạch Trạch, tên Nôm là Vạc, xưa thuộc tổng Đường An, thời Đồng Khánh kiêng húy tổng này đổi thành Bình An, thời nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)  

.

17-

Chánh tổng Triền Đổ

Chạy cỗ vợ ba

Sai nha rao mõ

Làng Cả góp gạo

Làng Cậy nấu xôi

Làng Nhòi rượu thịt

Làng Quạt áo váy

Làng Đáy khách mời

Làng Bươi rau cỏ

Triền Đổ cá mè

Làng Đìa nấu nướng

Tám làng lĩnh xướng

Giúp cụ Chánh già?

 

       (Đây là bài vè vui nói về tên Nôm của tổng Triền Đổ, sau là Lý Đổ, xưa thuộc huyện Đường An, thời nay thuộc huyện Bình Giang. Tám làng của tổng này gồm: Làng Phú Thuận, tên Nôm là Cả; làng Hương Gián (sau thêm làng Kệ Gián), tên Nôm là Cậy; Làng Phú Đa, tên Nôm là Nhòi; Làng Bất Đoạt, tên Nôm là Quạt; Làng Hợp Lễ, tên Nôm là Đáy; Giáp Lương làng Lôi Trì, tên Nôm là Bươi; Làng Triền Đổ sau đổi thành Lý Đổ và làng Lôi Trì, tên Nôm là Đìa, xưa thuộc tổng Triền Đổ, huyện Đường An, thời nay thuộc xã Hồng Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)    

 

18-

Ước gì ta lấy được nàng

Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu

Thanh Hóa cũng đốn trầu cau

Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò

Phú Thọ quạt nước hỏa lò

Hải Dương rọc lá giã giò gói nem

Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền

Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi

An Giang gánh đá nung vôi

Thừa Thiên, Đà Nẵng thổi xôi nấu chè

Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe

Đồng Nai, Gia Định chẻ tre bắc cầu

Anh mời khắp nước chư hầu

Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang

Nam Tào Bắc Đẩu dọn đàng

Thiên Lôi, La Sát hai hàng hai bên…

Vợ chồng ăn miếng trầu cay

Phải đâu khách lạ mà kiếm khay xà cừ.

 

(Còn nữa)

NGỌC TÔ sưu tầm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các tin liên quan

Đối tác

Len dau trang
© Copyright © 2018 . All rights reserved