CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN CHÍ LINH XỨ ĐÔNG
CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN CHÍ LINH XỨ ĐÔNG
.
Cũng giống như nhiều mảnh đất khác thuộc trấn Hải Dương, miền đất nơi đây thời cổ mang tên Chí Linh. Từ thời Trần (1225 – 1400) về trước thuộc đất Bàng Châu, tức châu Bàng. Thời thuộc Minh (1407 – 1427) đặt làm huyện Chí Linh thuộc châu Nam Sách, phủ Lạng Giang. Từ thời Hậu Lê (1428) cho tới đầu Nguyễn vẫn giữ tên huyện Chí Linh, phủ Nam Sách. Đầu Nguyễn huyện Chí Linh có 7 tổng (An Hộ, Cao Đôi, Chi Ngại, Cổ Châu, An Điền, Đông Đôi và Kiệt Đặc) với 64 làng, giáp. Cuối thế kỷ XIX thì ba tổng là An Hộ, Cao Đôi và An Điền bị cắt về phủ Nam Sách. Và huyện Chí Linh được bổ sung thêm hai tổng khác là Vĩnh Đại từ huyện Đông Triều và tổng Kham Điền từ huyện Phượng Nhãn phủ Lạng Giang. Như vậy tới cuối thế kỷ XIX, thì huyện Chí Linh gồm 6 tổng đó là Chi Ngải (trước đó là Chi Ngại), Cổ Châu, Đông Đôi, Kiệt Đặc, Vĩnh Đại và Trạm Điền (trước đó là Kham Điền).
Phong tục của huyện này được ghi ở sách quốc gia thời Nguyễn thế kỷ XIX như sau: “Dân chúng huyện Chí Linh thì kẻ sỹ chuyên cần học tập, nông dân chăm chỉ cấy cày, người làm các nghề thợ, buôn bán cũng có nhưng không nhiều. Quần áo ăn mặc, đồ dùng chuộng tiết kiệm. Việc cưới xin, ma chay, giỗ tết giữ gần đúng lễ. Dân các nơi gần núi có tính cách vũ dũng như các tổng Cổ Châu, Kiệt Đặc, Chi Ngại, Đông Đôi, ngoài ra nói chung đều thuần hậu, chất phác. Người tu hành đạo Phật không nhiều. Theo Thiên chúa giáo đều là gián tòng, chỉ 3 làng Đáp Khê, Lương Gián, Hộ Xá (giáp Tây) mà thôi”.
Huyện Chí Linh thời Đồng Khánh (1886 – 1888) có 59 Tiến sỹ Nho học, đầu thế kỷ XX chuyển sang Nam Sách 28 vị, còn lại 31 vị. Trong đó một số làng có nhiều nhà khoa bảng đó là: Kiệt Đặc với 08 vị; Cổ Triền, đầu Nguyễn là Triền Dương (sau là Lý Dương) với 06 vị; Lạc Sơn với 03 vị. Sau đây là một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ cổ về huyện Chí Linh xưa:
1-
Phủ Thượng thành Bình
Phủ Hạ thành Ninh
Hai phủ Nam – Kinh
Giữ nguyên tên cổ
(Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở làng Vạc, nên còn gọi là phủ Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn gọi là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm 1837, thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, từ 2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
2-
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Châu Hồng, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
(Hồng Châu, tức châu Hồng, là đơn vị hành chính của chỉ Giao, tức Giao Chỉ, sau này là vùng đất thuộc Hải Dương, Hải Phòng cùng một phần của Hưng Yên và Quảng Ninh. Còn Nam Sách là một châu gồm nhiều huyện, trong đó có Tiên Lãng, Thanh Hà, Thanh Lâm, Chí Linh... Hay thừa tuyên Nam Sách thời Lê sơ, sau là thừa tuyên Hải Dương, rồi xứ Hải Dương, rồi trấn Hải Dương gồm 19 huyện cổ. Và câu ca này ý nói xứ Đông là nơi hiếu học, nhiều người đỗ đạt)
03-
Gốm trông phong cảnh hữu tình
Càng nhìn càng thấy vẻ xinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
(Làng Linh Giang, tên Nôm là Gốm, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thì làng Gốm thuộc xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, sau là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Và tại làng này có đền thờ Nhân Huệ, tức thờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thời Trần nằm bên tả ngạn kênh Sài, từ năm 1890 là sông Kinh Thầy)
04-
Đền thờ Nhân Huệ anh hùng
Vân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời.
(Làng Linh Giang, tên Nôm là Gốm, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thì làng Gốm thuộc xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, sau là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Và tại làng này có đền thờ Nhân Huệ, tức thờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thời Trần nằm bên tả ngạn kênh Sài, từ năm 1890 trở đi là sông Kinh Thầy. Còn Vân Đồn là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Chi Phong, sau là Hoa Phong, phủ Hải Đông, thời nay thuộc huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh)
05-
Đường về Kiếp Bạc bao xa
Đường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề
Có yêu anh cắp nón ra về
Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
(Làng Vạn An, tên Nôm là Kiếp, xưa thuộc tổng Kham Điền, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh). Còn làng Dược Sơn, tên Nôm là Bạc, xưa thuộc tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách. Do điều chỉnh về địa chí, cuối thế kỷ XIX, thì chính quyền Pháp đã cắt 3 tổng là Cao Đôi, An Hộ, An Điền từ huyện Chí Linh cho phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương và được nhập thêm tổng Vĩnh Đại từ huyện Đông Triều cùng tổng Kham Điền từ huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Từ thời gian này thì Kiếp Bạc hoàn toàn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thời nay thuộc xã Hưng Đạo sau là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng, nằm bên tả ngạn sông Lục Đầu)
06-
Kẻ Sặt đất lề quê thói
Kiệt Sơn thất thập nhị phong
(Làng Tráng Liệt, tên Nôm là Sặt, xưa thuộc tổng Tông Tranh (thời Thiệu Trị đổi là Thị Tranh), huyện Đường An, phủ Thượng Hồng. Cuối thế kỷ XIX thì làng này là Tráng Liệt Bình thuộc phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi dân cư đông đúc, giao thương sầm uất bên quốc lộ 5, quốc lộ 38 và dòng sông Sặt. Năm 1925, thì phủ lỵ Bình Giang chuyển từ giáp Ninh Bình, làng Hoạch Trạch (thời nay thuộc xã Thái Học) lên khu Kẻ Sặt, thời cách mạng là thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Còn làng Kiệt Đặc, xưa thuộc tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách. Dãy núi làng Kiệt Đặc này gọi là Kiệt Sơn (Phượng Hoàng). Có lẽ nơi đây lấy theo câu “Kiệt Sơn thất thập nhị phong” của Khu thắng cảnh Trương Gia Giới, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc với 72 kỳ lầu, nên câu “Kiệt Sơn thất thập nhị phong” có nghĩa nôm na là “72 đỉnh núi của Kiệt Đặc” vùng Chí Linh)
07-
Ngo – Nghe - Ngụ - Triện lái sang Triền
Qua Dâu - Nam Gián - Nẻo – Cùa - Thiên…
(Đây là các tên Nôm của địa danh hai bên sông Lục Đầu. Bốn làng Ngo – Nghe - Ngụ - Triện nằm bên hữu ngạn sông thuộc xứ Kinh Bắc, thời nay là Bắc Ninh. Còn làng Cổ Triền, tên Nôm là Triền, đầu Nguyễn đổi thành Triền Dương, đến năm 1843 kiêng húy vua Thiệu Trị đổi thành Lý Dương, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, thời nay là bến Triền Dương thuộc xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh. Theo bản đồ địa giới hành chính tỉnh Hải Dương do người Pháp làm, thì làng Lý Dương chỉ tiếp giáp với sông Lục Đầu, nên bến đò Triền Dương không nằm trên sông Kinh Thầy như một số tác giả đánh giá. Còn các làng mang tên Nôm là Dâu - Nam Gián - Nẻo – Cùa – Thiên… thuộc thị xã Chí Linh, thời nay là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
08-
Kiệt Sơn thất thập nhị phong(1)
Phượng Hoàng bậc nhất trong vùng Chí Linh
Non Tường(2) non Mật(3) bao quanh
Qua Hàm Ếch(4) trải Phượng ghềnh(5) triền miên.
Bên Tháp Thánh(6) bên động Huyền(7)
Xa xa Bãi Nhạn(8) gần miền Hang Giơi(9)
Cảnh thanh riêng một bầu trời,
Cảnh thanh dành để đợi người cao thanh…
(Đây là bài lục bát ghi lại các địa danh của Chí Linh: 1- 72 ngọn núi; 2- Núi làng Trại Tường, thời nay thuộc phường Văn An; Núi làng Mật Sơn, thời nay thuộc phường Chí Minh; 4- Tên thôn, thời nay thuộc phường Cộng Hòa; 5- Phượng Hoàng; 6- Tinh Phi cổ tháp, mộ của nữ Tiến sỹ Nho học duy nhất Nguyễn Thị Duệ; 7- Động Huyền Thiên; 8- Bãi cát Bạch Nhạn thuộc làng Phao Sơn, thời nay thuộc phường Phả Lại; 9- Hang trên Phao Sơn, còn tên khác là Hang Hòn)
9-
Nước Thanh Mai đi hai về một.
(Làng Thanh Mai, trước thuộc tổng Kham Điền, huyện Phượng Nhãn, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Cuối thế kỷ XIX được cắt về tổng Trạm Điền, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thời nay thuộc xã Hoàng Hoa Thám huyện Chí Linh, sau là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Địa danh nơi đây xưa kia là vùng rừng thiêng nước độc, có chùa Thanh Mai khá nổi tiếng)
10-
Thành Phao, tổng Cổ, Lục Đầu
Em về em để mối sầu cho ai.
(Làng Phao Sơn, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thuộc thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc phường Phả Lại, thành phố Chí Linh. Tổng Cổ Châu, gọi tắt là Cổ nằm bên tả ngạn sông Lục Đầu thuộc huyện Chí Linh, từ sau năm 1945 là xã Phả Lại, huyện Chí Linh, thời nay là phường Phả Lại thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Còn sông Lục Đầu gồm 6 sông đó là: Thiên Đức (Đuống); Chiêm Đức (Cầu); Nhật Đức (Thương); Phượng Nhãn (Lục Nam); Sài (Kinh Thầy) và Lâu Khê (Thái Bình) thuộc huyện Chí Linh, thời nay là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, từ tháng 07 năm 2025 là thành phố Hải Phòng)
11-
Trạng nguyên(1) cổ đường
Nhạn Loan(2) cổ độ
Dược Lĩnh(3) cổ viên
Huyền Thuyên(4) cổ tự
Thượng Tể(5) cổ trạch
Tiều Ẩn(6) cổ bích
Phao Sơn(7) cổ thành
Tinh Phi(8) cổ tháp
(Đây là “Chí Linh Bát cổ” gồm 8 di tích cổ: 1- Ngôi nhà dạy học của Mạc Đĩnh Chi ở làng Lũng Động huyện Chí Linh, từ cuối thế kỷ XIX thuộc phủ Nam Sách, sau 1945 là huyện Nam Sách; 2- Bến Nhạn Loan, gọi tắt là Nhạn, xưa thuộc làng Cổ Triền, đầu Nguyễn đổi là Triền Dương, đến 1843 kiêng húy đổi thành Lý Dương, xưa thuộc tổng Cổ Châu, thời nay là bến Triền Dương thuộc xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh. Theo bản đồ địa giới hành chính do người Pháp làm, thì làng Lý Dương chỉ tiếp giáp với sông Lục Đầu, nên bến đò Triền Dương không nằm trên sông Kinh Thầy; 3- Làng Dược Sơn, tổng Chi Ngại, sau năm 1945 thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, thời nay là thành phố Chí Linh; 4- Chùa cổ Huyền Thuyên ở làng Kiệt Đặc, tổng Kiệt Đặc, phía Nam núi Phượng Hoàng, thời nay thuộc xã Văn An, sau là phường Văn An, thành phố Chí Linh; 5- Đền thờ Trần Huệ Vũ vương (Thượng tể Trần Quốc Chẩn), hay còn gọi là đền Quốc Phụ, xưa kia nằm ở làng Kiệt Đặc, tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, thời nay thuộc xã Chí Minh, huyện Chí Linh; 6- Ngôi nhà ẩn dật của Nhà giáo Chu Văn An bên núi Phượng Hoàng, thời nay thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh; 7- Làng Phao Sơn, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thuộc thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc phường Phả Lại, thành phố Chí Linh; 8- Tháp mộ cổ của Tinh Phi Nguyễn Thị Duệ, người làng Kiệt Đặc, tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, thời nay là xã Văn An, sau là phường Văn An, thành phố Chí Linh, Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
12-
Vợ xứ Đông, chồng xứ Bắc
(Con gái xứ Đông - Hải Dương, nhiều người đảm đang, tháo vát)
13-
Vệt đen núi Hun
Mang chum hứng nước
(Côn Sơn, tức núi Côn, gọi theo tên Nôm là núi Hun ở làng Chi Ngại, tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương, thời nay thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Khi trời nóng gắt nhất vào mùa hè, nếu thấy trên đỉnh núi có vệt đen bốc lên mờ mờ, tục gọi hiện tượng ấy là “cây nước”, thì sau đó có mưa. Người quanh vùng vẫn xem hiện tượng ấy để đoán thời tiết)
14-
Núi Đọi ai đắp mà cao
Ngã ba sông Lệnh ai đào mà sâu
Rẽ, Guột ai bắc nên cầu
Con sông Lục Đầu ai chở đò ngang?
(Núi Đọi, một thắng cảnh ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Ngã 3 sông Lệnh là nơi phân lưu của sông Hồng vào sông Châu thuộc địa phận xã Yên Lệnh (nhánh nay nay đã bị lấp). Cầu Rẽ, cầu Guột nằm trên quốc lộ Hà Nội - Hà Nam. Còn sông Lục Đầu gồm 6 sông đó là: Thiên Đức (Đuống); Chiêm Đức (Cầu); Nhật Đức (Thương); Phượng Nhãn (Lục Nam); Sài (Kinh Thầy) và Lâu Khê (Thái Bình) thuộc huyện Chí Linh, thời nay là thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, từ tháng 07 năm 2025 là thành phố Hải Phòng)
.
15-
Muốn ăn cơm trắng cá mè
Về Phao Sơn hái lượm chè cùng anh
(Làng Phao Sơn, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thuộc thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc phường Phả Lại, thành phố Chí Linh, Hải Dương)
16-
Rượu ngang làng Hóp
Nồi đất làng Quao
Thuốc lào Quan San (Sơn)
(Làng Thượng Đáp, tên Nôm là Hóp, xưa thuộc tổng Vạn Tải, huyện Thanh Lâm, nay thuộc thị trấn Nam Sách. Làng Lâm Xuyên, tên Nôm là Quao, xưa thuộc tổng An Điền, huyện Chí Linh, cuối thế kỷ XIX tổng này được cắt về phủ Nam Sách, sau năm 1945 làng Quao thuộc xã Phú Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Còn làng Quan San, xưa thuộc tổng An Dật, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, thời nay thuộc xã An Sơn huyện Nam Sách với 4 Tiến sỹ Nho học họ Trần khá nổi tiếng)
17-
Phò Mã làng Kim
Trạng Nguyên làng Lũng
(Làng Kim Độ, gọi tắt là Kim, xưa thuộc tổng La Đôi, huyện Thanh Lâm, thời nay thuộc xã Hiệp Cát, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, thì đền thờ Trần Phò mã ở làng Kim Độ, tổng La Đôi. Thần họ Trần, tên tự là Kim Tiên quê bản xã, có tiếng là người học thức đức hạnh. Đời vua Lê Đại Hành (980 – 1005) nhờ có tài văn chương, được vua yêu quý, gả 2 công chúa thứ 7 và thứ 8 cho. Về sau nhà Lý thay nhà Lê, ngài lui về ở ẩn tại quê… Sau được lậ đền thờ và tôn làm phúc thần. Làng Kim Độ thời nay thuộc xã Hiệp Cát, huyện Nam Sách. Còn đền thờ Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi ở làng Lũng Động, gọi tắt là Lũng, xưa thuộc tổng Cao Đôi, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách. Từ cuối thế kỷ XIX tổng này được cắt về phủ Nam Sách, thời nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách)
18-
Một số câu thành ngữ dân gian cho rằng nói về cốt cách của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi:
Đói cho sạch
Rách cho thơm
Hay:
Cây ngay bóng thẳng
Cây cong bóng vẹo
Hay:
Áo rách cốt cách người thương
Hay:
Của thấy không xin
Của công giữ gìn
Của rơi không nhặt
19-
Muốn ăn cơm trắng canh ngao
Thì về làng Rào dệt cửi cùng anh
(Làng Xác Khê, tên nôm là Rào, xưa thuộc tổng An Điền, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, cuối thế kỷ XIX tổng này bị cắt về phủ Nam Sách. Làng Xác Khê đổi thành Kim Khê (cạnh làng Quao), thời cách mạng thuộc xã Phú Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương)
20-
Muốn ăn cơm trắng rau dền
Thì về nấu rượu Phú Xuyên với mình
Muốn ăn cơm trắng cá chình
Thì về nấu rượu với mình Phú Xuyên
(Giáp Phú Xuyên, xưa thuộc tổng An Điền, huyện Chí Linh. Từ cuối thế kỷ XIX Phú Xuyên trở thành đơn vị hành chính cấp làng và tổng này chuyển về phủ Nam Sách, từ sau năm 1945 là thôn Phú Xuyên, xã Phú Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Từ tháng 07 năm 2025 thuộc xã Nam Sách thành phố Hải Phòng)
21-
Chơi với dân Lạc Sơn
Chẳng thiệt đơn cũng thiệt kép
(Làng Lạc Sơn, xưa thuộc tổng Đông Đôi, thời nay thuộc phường Thái Học, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
22-
Chơi với dân Kiệt Đặc
Chẳng mất bạc cũng mất tiền
(Làng Kiệt Đặc, xưa thuộc tổng Kiệt Đặc, thời nay thuộc phường Văn An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
23-
Trai An Mô chưa xô đã ngã
Gái Đông Xá chưa gạ đã theo
(Làng An (Yên) Mô, xưa thuộc tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc xã Lê Lợi, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nơi có đền Mẫu). Còn làng Đông Xá, xưa thuộc tổng Vĩnh Đại, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, từ cuối thế kỷ XIX thì tổng này bị cắt về huyện Chí Linh, thời nay thuộc phường Hoàng Tân, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
24-
Ai đưa tôi đến nơi đây
Bên kia bến Nhạn bên này thành Phao
(Bến Nhạn Loan, gọi tắt là Nhạn, xưa thuộc làng Cổ Triền, tên Nôm là Triền, đầu Nguyễn đổi là Triền Dương, đến năm 1843 kiêng húy đổi thành Lý Dương, xưa thuộc tổng Cổ Châu, thời nay là bến Triền Dương thuộc xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh. Theo bản đồ địa giới hành chính do người Pháp làm, thì làng Lý Dương chỉ tiếp giáp với sông Lục Đầu, nên bến đò Triền Dương không nằm trên sông Kinh Thầy, thời nay địa danh trên thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Còn làng Phao Sơn, xưa thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, sau năm 1945 thuộc thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc phường Phả Lại, thành phố Chí Linh, Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
25-
Thuốc nam Dược Sơn
Cá tôm làng Chí
Lắm chữ làng Kiệt
(Dược Sơn, tức “núi Thuốc”, xưa thuộc tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh, thời nay thuộc thành phố Chí Linh. Làng Chí Linh, gọi tắt là Chí, xưa thuộc tổng Cổ Châu, làng này có giáp Thượng ở phía trên và qua làng Đáp Khê tới giáp Hạ với diện tích khá rộng, nằm giữa tả ngạn sông Lục Đầu (từ 1890 là Thái Bình) và tả ngạn kênh Sài (từ 1890 là KinhThầy), thời nay thuộc xã Nhân Huệ, Chí Linh, đây là vùng đất trũng khá nhiều tôm cá. Còn làng Kiệt Đặc, xưa thuộc tổng Kiệt Đặc, thời nay thuộc phường Văn An có 8 Tiến sỹ Nho học gồm: Nguyễn Doãn Khâm đỗ năm 1559; Nguyễn Lễ đỗ năm 1568; Nguyễn Phong đỗ năm 1568; Nguyễn Thị Duệ đỗ năm 1594; Nguyễn Quang Trạch đỗ năm 1667; Nguyễn Đình Tuấn đỗ năm 1688; Nguyễn Quang Hạo đỗ năm 1691 và Nguyễn Quang Dương (Nguyễn Tứ) đỗ năm 1710)
(Còn nữa)
NGỌC TÔ (Sưu tầm và biên soạn)