CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN CẨM GIÀNG XỨ ĐÔNG
CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN CẨM GIÀNG XỨ ĐÔNG
.
Cũng giống như nhiều mảnh đất khác thuộc trấn Hải Dương, miền đất nơi đây thời cổ mang tên Cẩm Giang, từ hồi Trịnh Giang nắm quyền (1729), thì đọc chệch đi là Cẩm Giàng, song các văn bản đều ghi là Cẩm Giang. Từ thời Lý - Trần (1009 – 1400) là hương Đa Cẩm. Thời thuộc Minh (1407 – 1427) đặt làm huyện Đa Cẩm thuộc châu Thượng Hồng. Đời Lê Thánh Tông (1469) đổi là huyện Cẩm Giang thuộc phủ Thượng Hồng. Đầu Nguyễn huyện Cẩm Giàng có 14 tổng (Vương Xá; Hòa Đam; Ngọc Trục; Mao Điền; Kim Quan (trước là Kim Lan); Tràng Kỹ; Bằng Quân; Thạch Lỗi; Vĩnh Lại; Lai Cách; Tứ Minh; Hàn Giang; Đan Tràng và Văn Thai) với 84 làng, giáp. Cuối thế kỷ XIX, thì tổng Yên Xá (trước là Vương Xá) và tổng Hòa Đam được cắt về phủ Mỹ Hào (sau 1945 là huyện Mỹ Hào), tỉnh Hưng Yên. Cùng trong thời gian này, thì tổng Yên (An) Trang (gồm 5 làng là Đức Trai, Hương Phú, Trạm Du, Uyên Đức và Yên (An) Trang), huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh được cắt về huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Vào thời điểm này huyện Cẩm Giàng có 13 tổng gồm: Bằng Quân, Đan Tràng, Hàn Giang, Kim Quan, Lai Cách, Mao Điền, Ngọc Trục, Thạch Lỗi, Tràng Kỹ, Tứ Thông, Văn Thai, Vĩnh Lại và Yên Trang.
Còn về phong tục được ghi ở sách quốc gia thời Nguyễn thế kỷ XIX như sau: “Huyện Cẩm Giàng là phần đất bao bọc bên ngoài thành tỉnh. Kẻ sỹ phần nhiều là những người có văn học, mà quá chuộng về văn. Dân phần nhiều làm nghề buôn bán mà có phần trí xảo. Về ăn mặc thì tập tục ưa thích xa hoa, lả lướt. Dân nhiều người theo đạo Phật, còn theo Thiên chúa giáo chỉ có 3 làng giáp là Phú Lộc, Lai Cách và Kim Đôi mà thôi”
Huyện Cẩm Giàng thời Đồng Khánh (1886 – 1888) có 53 Tiến sỹ Nho học, cuối thế kỷ XIX nhận của huyện Lương Tài 08 vị (tổng Yên Trang), chuyển cho huyện Mỹ Hào 06 vị (tổng Vương Xá và tổng Hòa Đam) và thành phố Hải Dương 05 vị. Thời cách mạng còn 50 vị. Một số làng có nhiều Tiến sỹ Nho học như: Kim Lan (Kim Quan) với 07 vị; An Trang (trước thời Đồng Khánh thuộc huyện Lang Tài, Bắc Ninh) với 07 vị; Bình Lãng (Bình Phiên) với 05 vị; Nghĩa Lư (Nghĩa Phú) với 04 vị; Thạch Lỗi với 04 vị... Sau đây là một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ cổ về huyện Chí Linh xưa:
1-
Phủ Thượng thành Bình
Phủ Hạ thành Ninh
Hai phủ Nam – Kinh
Giữ nguyên tên cổ
(Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở làng Vạc, nên còn gọi là phủ Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn gọi là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm 1837, thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, từ 2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
2-
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Châu Hồng, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
(Hồng Châu, tức châu Hồng, là đơn vị hành chính của chỉ Giao, tức Giao Chỉ, sau này là vùng đất thuộc Hải Dương, Hải Phòng cùng một phần của Hưng Yên và Quảng Ninh. Còn Nam Sách là một châu gồm nhiều huyện, trong đó có Tiên Lãng, Thanh Hà, Thanh Lâm, Chí Linh... Hay thừa tuyên Nam Sách thời Lê sơ, sau là thừa tuyên Hải Dương, rồi xứ Hải Dương, rồi trấn Hải Dương gồm 19 huyện cổ. Và câu ca này ý nói xứ Đông là nơi hiếu học, nhiều người đỗ đạt)
.
3-
Đường làng Dầu trơn như mỡ.
(Làng Kham Du, tên Nôm là Dầu, trước thời Đồng Khánh đổi là Trạm Du, xưa thuộc tổng An (Yên) Trang, huyện Lương (Lang) Tài, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, cuối thế kỷ XIX tổng này được cắt về huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nằm bên hữu ngạn sông Thái Bình, thời nay thuộc xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ tháng 07 năm 2025 thuộc xã Cẩm Giang, thành phố Hải Phòng. Tại làng này có đền thờ Phụ chính Thái sư Trung Tiết vương Tô Hiến Thành thời Hậu Lý)
4-
Giếng Ngọc Lâu vừa trong vừa mát
Đường Ngọc Lâu lắm cát dễ đi
Hay:
Con gái Ngọc Lâu như hoa thiên lý
Con trai hàng xứ có ý thì trông
(Làng Ngọc Lâu thuộc tổng Bằng Quân, huyện Cẩm Giàng, thời nay thuộc xã Cẩm Hoàng, huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương)
5-
Nước giếng Bầu
Cua đồng Thủ
(Giáp Bản Hóa, tên Nôm là Bầu thuộc làng Lai Cách (Gạch), tổng Lai Cách, thời nay thuộc thị trấn Lai Cách, huyện cẩm Giàng có mạch nước trong và ngọt phục vụ cho cả làng. Và tại làng Lai Cách này có cánh đồng mang tên Thủ với cua đồng khá chất lượng)
6-
Lý Gạch kêu gọi:
Làm gỏi cá mè
Thôn Đìa góp cá
Bản Hóa dầu ăn
Đống Năm gia vị
Thôn Ngọ riềng mẻ
Thôn Bễ rượu ngang
Thôn An sắm cỗ
Sáu thôn tay vỗ
Cá mè tiến vua?
(Đây là bài vè vui của làng Lai Cách, tên Nôm là Gạch, xưa thuộc tổng Lai Cách hay còn gọi theo tên Nôm là tổng Gạch, thời nay thuộc thị trấn Lai Cách, huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Làng này có giống cá mè khá ngon, được người dân Cẩm Giàng gọi là “cá mè tiến vua”. Làng Gạch có 6 giáp gồm: An Nghĩa, gọi tắt là An, tên Nôm là Nghĩa; Bản Hóa, tên Nôm là Bầu; Chung Đàm, tên Nôm là Đìa; Khải Đễ, tên Nôm là Bễ; Ngũ Lộc, tên Nôm là Đống Năm và Ngũ Mã, tên Nôm là Ngọ)
7-
Một đồng một giỏ
Không ai bỏ nghề câu
(Phương ngôn làng An (Yên) Trang, tên Nôm là Giám, xưa thuộc tổng An Trang, huyện Lang Tài, Bắc Ninh, từ cuối thế kỷ XIX được cắt về huyện Cẩm Giang, thời nay thuộc xã Cẩm Văn, huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Hai từ Cẩm Giang nghĩa nôm na là con sông đẹp. Từ khi chúa Trịnh Giang cầm quyền, thì từ Giang trong văn nói đọc chệch là Giàng, song trong văn viết vẫn ghi là Cẩm Giang, kể cả các Thần sắc đều ghi là Cẩm Giang)
8-
Dù cho đi chợ đường dài
Nhớ ngày bốn, chín Văn Thai thì về
Hay:
Dù cho đi chợ đường dài
Nhớ ngày bốn, chín Cầu Hai thì về
(Chợ Văn Thai hay gọi theo tên Nôm là Cầu Hai, xưa thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, thời nay thuộc xã Cẩm Văn, huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Chợ này họp một tháng có 6 phiên chính vào các ngày 04, 09, 14, 19, 24, 29 hằng tháng âm lịch)
9-
Dân làng Cầu Hai
Sớm mai đánh cá
Lưới vó thôn Vạn
Nơm, giậm thôn Đình
Mủng thuyền Bến Đá
Đơm đó Cầu Ba
Rọ lờ Ngõ Cống
Bao tôm cá sống
Tống ra Chợ quê?
(Đây là bài vè vui tên Nôm của các giáp về việc đánh cá làng Văn Thai, tên Nôm là Cầu Hai, xưa thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng. Làng này gồm 7 giáp là Vạn, Đình, Bến Đá, Ngõ Cống, Cầu Ba và Chợ)
10-
“Dược tính chỉ Nam
Thập tam phương gia giảm”
(Đây là 2 cuốn sách viết về y dược thời Trần của Tuệ Tĩnh, húy là Nguyễn Bá Tĩnh, người quê ở làng Nghĩa Phú, tên Nôm là Sưa, xưa thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, thời nay thuộc xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương)
11-
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Đây là đôi câu đối ở đền thờ Tuệ Tĩnh ở huyện Cẩm Giang, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, thời nay là huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Hai từ phương Tiên là phương thuốc tiên, Thái lĩnh nghĩa là ngọn núi Thái Sơn)
12-
Sứ mệnh viên hoàn, Hoàng giáp phương danh đằng Bắc quốc
Danh khôi Tiến sỹ, Thánh sư diệu dược chấn Nam bang
(Đây là câu đối ở chùa Viên Quang, làng Hộ Xá, tổng Hộ Xá, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ, thời nay thuộc xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, từ 07/2025 là tỉnh Ninh Bình. Hai từ Hoàng giáp nghĩa là đỗ Tiến sỹ đệ nhị, đằng Bắc quốc nghĩa là vang vọng lấn sang cả Trung Quốc, còn chấn Nam bang là nước Nam, tức Việt Nam thời nay)
13-
Nam dược trị Nam nhân
(Đây là câu Danh ngôn khá nổi tiếng, nghĩa câu này nôm na là “Thuốc Nam Việt chữa cho người Nam Việt”)
14-
Làng Quàn đánh cầu
Làng Lau bắt cá
Ha Má gạo ngon
(Làng Phú Xá, tên Nôm là Quàn, xưa thuộc tổng Thạch Lỗi, huyện Cẩm Giàng. Làng Bình Lao, tên Nôm là Lau, xưa thuộc tổng Hàm Giang, dân gian gọi là Hàn Giang. Làng Phú Lộc, tên Nôm là Ma Há, xưa thuộc tổng Văn Thai, tên Nôm của Văn Thai là Cầu Hai)
15-
Chợ Phủ một tháng sáu phiên
Ngày ba ngày tám chớ quên mà về
(Chợ Phủ xưa họp ở thực địa giáp Hoàng Xá, làng Mao Điền, tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, thời nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương vào các ngày 03, 08, 13, 18, 23, 28 hằng tháng âm lịch)
16-
Đại Liêu - Kham Du
Văn từ - Quảng Nạp
Nguyễn Bạt - Phá Lãng
(Đây là 3 di tích cổ. Đền thờ Tô Đại liêu ở làng Kham Du, tên Nôm là Dầu, trước thời Đồng Khánh (1886 – 1888) đổi thành Trạm Du, xưa thuộc tổng An (Yên) Trang, huyện Lương Tài, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Từ cuối thế kỷ XIX, thì tổng An Trang của huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh được cắt về huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, thời nay thuộc xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng. Thần họ Tô, tên là Hiến Thành đỗ cao khoa thi Minh Kinh bác học (tức khoa thi Tiến sỹ Nho học) năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 6 (1138), có công lớn cho Đại Việt, làm tới chức Thái sư, sau làm Phụ chính (cố vấn 2 vua Lý), tước Đại Liêu ban, sau được ban tước Trung Tiết vương, mặc dù ông không phải là tôn thất nhà Lý. Do chiến tranh đền bị phá và sau này thôn dân làng Dầu thờ Ngài ở đình làng, tới nay làng vẫn còn giữ được 8 đạo Sắc phong thần của triều Nguyễn cho Tô Đại Liêu Tôn thần. Hay ngay tại đình làng Bùi, tổng Phá Lãng, huyện Lương Tài, Bắc Ninh từ xưa tới nay vẫn thờ Phụ chính Thái sư Trung Tiết vương Tô Hiến Thành. Văn từ huyện Lương Tài có từ thời Hậu Lê đặt tại làng Quảng Nạp, tên Nôm là Ngòi, xưa thuộc tổng Quảng Bá, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, thời cách mạng thuộc xã Quảng Phú, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1947 Văn từ bị phá hủy hoàn toàn, các tài liệu hiện vật không còn. Hiện nay tại Viện Hán nôm còn lưu giữ được 3 thác bản văn bia liên quan đến người được thờ tại Văn từ. Còn đền thờ Thượng thư Lương Quân công Nguyễn Bạt, húy là Tụy, hay còn gọi là đền Nguyễn Mai Am ở làng Phá Lãng, tên Nôm là Bùi, xưa thuộc tổng Phá Lãng, huyện Lương Tài, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, thời nay thuộc thôn Bùi, thị trấn Thứa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Thần họ Nguyễn Bạt, húy là Tụy, hai lần đỗ đồng Tiến sỹ thời Đoan Khánh (1508) và thời Hồng Thuận (1511), hai lần đi sứ, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại, tước Lương Quận công, đời sau còn lưu hành tập thơ “Nhị thập tứ hiếu”, sau khi mất được phong Phúc thần)
17-
Các nàng Phướn, Lối, Phủ, Giằng
Ma Há, Ghẽ, Mỏ đãi đằng Tứ Thông
Chi Các, Phí, Giám, Gạch, Đồng
Còn cô Điềm Lộc phải lòng Cầu Hai?
(Câu ca nói về 15 chợ của huyện Cẩm Giàng, chỉ có 3 chợ họp thường nhật là Chi Các, Đồng Niên và Điềm Lộc. Còn các chợ khác đều có phiên chính, phiên phụ. Ngọc Trục tên Nôm là Phướn, Thạch Lỗi tên Nôm là Lối, chợ Phủ ở Mao Điền, Bình Phiên tên Nôm là Giằng, Phú Lộc tên Nôm là Ma Há, Tràng Kỹ tên Nôm là Ghẽ, Quý Dương tên Nôm là Mỏ, Phí Xá tên Nôm là Phí, An Trang tên Nôm là Giám, Lai Cách tên Nôm là Gạch, Đồng Niên gọi tắt là Đồng, Văn Thai tên Nôm là Cầu Hai)
18-
Văn miếu - Mao Điền
Y Tiên - Nghĩa Phú
Hay:
Văn miếu - Mao Điền
Y Tiên – làng Sưa
(Làng Mao Điền, xưa thuộc tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng có Văn miếu hàng tỉnh vào tốp sớm nhất ở nước ta, thời nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng. Còn Danh Y Tuệ Tĩnh thời Trần được người đời sau tôn vinh là phương Tiên hay Thánh thuốc Nam, quê ở làng Sưa hương Đa Cẩm, châu Thượng Hồng. Từ đời Lê Thánh Tông (1469) là làng Nghĩa Phú, tên Nôm là Sưa, xưa thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giang, phủ Thượng Hồng. Từ thời Trịnh Giang nắm quyền, thì trong văn nói là Cẩm Giàng, còn trong văn viết vẫn ghi là Cẩm Giang. Thời cách mạng thuộc xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
19-
Làm bột làng Mỏ
Dệt vải Mao Điền
Đan phên làng Ngút
(Nghề làm bột nếp và tẻ thuộc về làng Quý Dương, tên Nôm là Mỏ, xưa thuộc tổng Tràng Kỹ, thời nay thuộc xã Tân Trường, huyện Cẩm Giàng. Làng Mao Điền, xưa thuộc tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, thời nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng có nghề dệt vải và nhuộm thâm khá nổi tiếng. Còn nghề đan lát thuộc về làng Nguyên Khê, tên Nôm là Ngút, xưa thuộc tổng Kim Quan, thời nay thuộc thị trấn Cẩm Giàng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng)
20-
Muốn ăn cơm trắng cá khoai
Thì về kéo mật Cầu Hai cùng mình
Muốn ăn cơm trắng cá trình
Thì về kéo mật với mình Cầu Hai?
(Làng Văn Thai, tên Nôm là Cầu Hai, xưa thuộc tổng Văn Thai, huyện cẩm Giàng, thời nay thuộc xã Cẩm Văn, huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương)
21-
Danh khôi nhị giáp tiêu Trần – Giám
Sứ mạnh thập toàn tỉnh Bắc y.
(Đây là đôi câu đối tại đền thờ Danh y Tuệ Tĩnh tại quê hương ông ở Cẩm Giàng)
(Còn nữa)
NGỌC TÔ sưu tầm




















.jpg)





